"Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi" - Phật Gotama

Thứ Sáu, 9 tháng 3, 2018

Thứ gì là bình thường ?

Chúng sanh Đức Minh nói : "Muốn đạt Đạo thì chúng ta phải Bình Thường, đói ăn khát uống, xấu đẹp đều thấy, hay dở đều biết, vui thì la lên, buồn thì cứ than thở, đau khổ thì cứ khóc… cứ phải chân thật, cứ phải bình thường." 



Phản luận : đây là cách khẳng định sai ngay ở phần cơ bản cốt lỗi về quy luật vận hành của vũ trụ mà cụ thể ở đây là quy luật vô thường. Như chúng ta cũng biết, thế giới hữu vi là vô thường, một phàm phu khi chưa đạt đạo thì tâm vô thường biến đổi theo từng sát na và tất nhiên kể cả các hoạt động sinh hoạt hằng ngày như ăn uống,ngủ, nghỉ,.... Cái bình thường của tâm ở người đạt đạo ở đây muốn nói chính là sự chứng quả, giải thoát với tâm vô lậu. Tâm ấy không sanh, không diệt tức không khởi tham, sân , si , mạn, nghi ,...thì làm gì có chuyện cần phải diệt các tâm tham, sân, si,...ấy ? Cho nên, gọi tâm này là tâm bình thường chứ không phải bình thường ở các hoạt động ăn, ngủ, nghỉ, sinh hoạt hằng. Các hoạt động này đều thuộc vào hoạt động của sự sanh diệt thay đổi liên tục. Cử chỉ, hành động không giống nhau hôm nay so với hôm trước, có sự bắt đầu hành động và kết thúc hành động tức có sanh diệt,....vậy nên nó gọi là vô thường. Do con người phàm phu ko nhận diện như chúng đang là, tức thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng  đang diễn ra mà ở đây là sinh hoạt hằng ngày, họ cứ thấy nó diễn ra lập đi lập lại giống nhau bên ngoài rồi bảo bình thường nhưng thực chất không phải vậy. Cái nhìn phàm phu là cái nhìn ở góc độ tương đối, mê mờ nên nhìn bề ngoài tổng quát rồi nói cho người khác nghe như thế như thế...bla..bla..kiểu khẳng định như quy luật. Trong khi đó, quy luật vô thường là lý cơ bản mà một người đang tu tập cần phải "nắm chắc". Khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng phải có sự tác ý ( tư duy) liên tục dựa trên lý đó.

Chúng sanh Đức Minh nói ở phần đầu "nếu muốn đạt đạo". Chữ "đạo" ở đây nghĩa là con đường để đi đến sự thông suốt. Một khi muốn như vậy thì phải đi trên con đường được vạch sẵn tức sử dụng các phương tiện tu tập. Ở Đạo phật có rất nhiều pháp môn. Mỗi pháp môn khác nhau về hình thức nhưng đều với mục đích là để cầu đạt giải thoát. Cho nên, các pháp môn chỉ là các phương tiện cho người đang tu tập cầu giải thoát. Mà đã là phương tiện thì đều là sự giả của pháp đồng nghĩa với việc pháp ấy là vô ngã. Khi đạt đạo thì không cần phải sử dụng phương tiện để đến bờ bên kia nữa. Lúc đó, pháp phương tiện từ chỗ sanh do dụng pháp phương tiện sang diệt tức ko dụng nữa, tâm ta thay đổi từ vô thường sang bình thường như đã đề cập ở trên.

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018


Ở người đời, những người chưa tìm hiểu kỹ về kinh sách đạo phật thường nhầm lẫn khi thấy người khác giảng nhiều vấn đề trong cuộc sống liền bảo giảng ko phải, không đúng chánh pháp, sai đường lối Phật đà,....

Cái cốt tủy của đạo phật là giúp con người thoát khổ nên tu pháp phương tiện để đi đến chỗ giải thoát. Cho nên, đạo phật thường đề cập vào vấn đề cốt lỗi này xoay quanh vấn đề đạo đức, nhân cách sống của con người trong từng hành động hằng ngày và tu thiền để đạt được sự hạnh phúc bền vững. Cuộc sống thế gian có rất nhiều hạng người tốt xấu, có nghề nghiệp ở nhiều vực khác nhau. Tu sĩ có pháp phương tiện dành cho hàng tu sĩ, còn những người chưa có điều kiện nhân duyên để xuất gia, đang ở tại gia nếu là cư sĩ hoặc người dân khác làm nhiều lĩnh vực khác nhau thì họ vẫn có pháp phương tiện nhằm giúp họ ở mức tối thiểu là sống một cuôc sống đạo đức, thiện lành. Chính vì vậy, chúng sanh cần rất nhiều pháp phương tiện, pháp thiện xảo để giảng ở tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xh nói chung và gia đình nói riêng,.... Chúng ta cần phải biết rõ điều này để đừng ngộ nhận, chỉ trích khi thấy một ai đó giảng giải phật pháp nhiều góc độ, nhiều lĩnh vực ở đời sống thường ngày. Ví dụ thấy ai đó đề cập một vấn nạn tham nhũng của quan chức liền phản đối, chụp mũ mà không biết nội dung bên trong nói gì, khuyên chúng ta điều thiện lành gì....

Bên cạnh đó, lâu lâu tui vẫn thấy xuất hiện có tu sĩ đi giảng, đề cập nghiêng về lĩnh vực như kinh tế, chính trị mang màu sắc chuyện thế gian mà trước đó có nhiều tranh cãi, nghiên cứu, luận bàn, đối nghịch,.... Ví dụ như đề cao, tung hô nền kinh tế thị trường định hướng xhcn là siêu Việt; hoặc ca ngợi chế độ nào đó, bảo rằng độc đảng nhưng không độc tài. Nói nó là ưu việt, thế giới ngày nay cần phải học hỏi theo; hoặc bảo Lý Thường Kiệt đánh TQ là hỗn hay dân tộc VN là em, còn dân tộc TQ là anh vì dựa vào truyền thuyết cá nhân một vị vua để khẳng định..bla..bla.... Việc giảng pháp như thế có đúng với đường lối của Phật đà không ? Phải khẳng định là không ! đây là hành động sai trái, giảng bậy của những tu sĩ nào đó. Như tui đã nói trên, đạo phật dạy về nhiều vấn đề giúp chúng ta hiểu biết nhiều thứ bên trong lẫn bên ngoài chúng ta nhưng nó nhấn mạnh, lấy con người làm trọng tâm xoay quanh ở đạo đức; con người ứng xử tốt với chúng sanh, môi trường xung quanh khác. Người thực hành giáo pháp Phật đà sẽ ngày càng có được sự hiểu biết về quy luật vũ trụ vận hành chứ ko đi chuyên biệt về một chuyên đề, lĩnh vực của người thế gian đang còn nghiên cứu tức đang ở phạm vi của pháp tương đối như việc nói, phân tích chuyên về chính trị, về kinh tế, xh.... Một tu sĩ dù có đạt được quả vị cao như thế nào cũng không thể nào hiểu biết sâu về một lĩnh vực khoa học nghiên cứu nào như kinh tế hay chính trị, xh,... nào đó. Nếu có giảng về đề tài liên quan chính trị thì chỉ giảng cho con người nghiêng về đạo đức trong chính trị đồng nghĩa với việc giúp cho họ thực tập có được sự sáng suốt nhìn nhận trong thực tại, trong từng hành động, từng lời nói , suy nghĩ một cách chân chánh. Làm sao có lợi ích cho mình và lợi ích cho chúng sanh khác hầu thoát khổ. Những hành động ấy có thể bao gồm cả nghề nghiệp chính trị chân chánh thể hiện qua việc làm không sát sanh loài vật, không giết hại người như bắt bế người bỏ tù đúng tội nhưng giết hại họ trong tù rồi bảo họ tự sát; không trộm cắp tài sản của nhân dân như không đi cướp ruộng đất nhân dân làm tài sản riêng cho đảng phái hoặc nhóm lợi ích, nhóm chính trị có sân sau và đăc biệt là không có tham ô, tham nhũng tiền thuế của nhân dân; không có nói láo, nói lưỡi hai chiều, không dùng công cụ truyền thông định hướng để tuyên truyền dối trá nhồi sọ nhân dân; không có độc đoán, độc tài, độc đảng vì điều này không đúng với cách sống vô ngã của người thực tập giáo pháp. Tất cả những điều này đều được đề cập trong nội dung tóm gọn Tứ diệu đế và cụ thể hơn là những nội dung chung chung trong Bát chánh đạo mà phật Gotama khi xưa đã giảng dạy.

Thứ Ba, 13 tháng 2, 2018


Cụm từ "sư quốc doanh" được người
Nguồn ảnh : internet
Lời trích trong ảnh: tìm nghe bài
giảng có tiêu đề "Biển đông dậy sóng".
đời ngày nay hay dùng để chỉ cho những tăng ni được đảng phái cai trị lập nên hầu định hướng theo đường lối chính trị hoặc các chư vị ăn theo chính trị. Những thành phần tăng lữ này thật ra đã có từ rất lâu rồi. Từ thời phong kiến đã xuất hiện với cách gọi khác là "tăng quan". Từ "tăng quan" xuất hiện bên Trung Quốc thời Bắc Nghị giai đoạn khoảng năm 386 đến 534 rồi truyền sang VN. Tăng quan là thành phần sư quốc doanh nếu sử dụng ngôn ngữ ngày nay để nói. Họ do triều đình phong kiến bổ nhiệm để quản lý tăng chúng cả nước. Tại nước ta, từ thời phong kiến, thời Đinh Tiên Hoàng đã xuất hiện tăng quan với chức danh là tăng thống. Sau đó, truyền thống kế truyền chức danh này qua đến các đời Lê, Lý, Trần....và đến ngày nay. Nhà sư Khuông Việt là vị tăng quan, chức danh tăng thống được vua Đinh Tiên Hoàng phong đầu tiên trong lịch sử VN.
Bàn thêm : tùy theo mỗi chế độ. Có những chế độ mang tính đạo đức, nhân văn như thời kỳ phật giáo trở thành quốc đạo, vua chúa và rất nhìu quan chức sùng kính đạo phật nên họ ăn ở hiền lành, giữ đạo đức, làm cho nhân dân kính yêu. Việc hình thành các sư quốc doanh trong giai đoạn này có thể mang lợi ích một phần cho chúng sanh, bá tánh ( ở đây không bàn đến việc đúng sai theo góc độ tu tập nhé). Nhưng, có những chế độ cai trị thối nát, độc đoán nào đó thì việc lập nên các sư quốc doanh nhằm làm công cụ, tay sai để duy trì chế độ rất nguy hiểm cho chúng sanh. Chúng sanh lúc đó khó tránh khỏi kiếp nạn khổ đau do sự lộng hành từ trên xuống dưới của bộ máy cai trị trong đó có góp phần của giới tăng quan. Lúc này, các sư quốc doanh trở thành tà sư ngoại đạo. Nếu như đám quan chức trong hệ thống cai trị có đời sống ngày càng tha hóa, thiếu đạo đức, thích hành hạ nhân dân, cướp bóc nhân dân như cướp đất, cướp tài sản, tham nhũng khủng khiếp,...để ngày càng giàu lên thì ở giới tăng quan cũng vậy, họ tha hóa đạo đức, lấy đạo để tạo đời, ham thích chuyện thế gian nhằm thỏa dục vọng, giới luật ko còn nghiêm ngoặc nữa. Họ không còn gọi là các vị tu sĩ có chức năng trợ duyên, đem lại hạnh phúc, an lạc cho chúng sanh.

Nói tóm lại, dù ở bất kỳ thời điểm nào, con đường mà các vị tu sĩ nên lựa chọn thông minh hiện nay là không trở thành sư quốc doanh, từ bỏ nó, chú tâm đi theo con đường trung đạo mà phật Gotama đã chỉ dạy. Đây là con đường lợi ích, tốt nhất cho chúng sanh đang cần thông qua các lời truyền giảng của tu sĩ. Đây cũng là con đường mà phật Gotama trước đây đã từng đi.

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018



Như chúng ta cũng biết, ở các chế độ
Ảnh minh họa 
phong kiến, tầng lớp cai trị bao gồm vua quan phần lớn rất sợ đến cái chết, đặc biệt là những vị "chúa tể" ngồi trên ngai vàng ngự trị bá tánh trong thiên hạ. Vì sao như vậy ? Vì nếu thật sự truy nguyên cái nỗi sợ hãi ấy do đâu mà có thì nó bắt đầu từ vô minh đồng nghĩa với sự thiếu hiểu biết, ko có sáng suốt. Do thiếu sự hiểu biết các sự vật hiện tượng như thật nên con người khởi tham, khởi ham
 muốn muốn tiếm đoạt nó làm sở hữu riêng cho mình, sợ mất đi cái của riêng mình. Một vị vua đang ngự trị trên ngai vàng điện ngọc hay một vị quan đang ngồi cái ghế cao, có chức tước hưởng cuộc sống sung sướng nhờ bổng lộc. Lòng tham, lòng ham muốn của họ ngày càng được huân tập trưởng dưỡng gia tăng theo thời gian tại vị được cho là bền bỉ cả cuộc đời. Cho nên, ở thời Ai cập cổ đại, nhiều vua chúa sau khi chết còn luyến tiếc muốn hưởng sung sướng ở thế giới bên kia là mãi mãi. Họ bắt nô tỳ, cung nữ, trâu bò, ngựa chôn sống theo trong ngôi mộ của mình hầu nghĩ tưởng đến khoái lạc hưởng thụ sau khi chết. Nhưng họ đâu biết rằng, những người chôn theo, những con vật đáng nhẽ phải hưởng được quyền sống cơ bản nhưng lại bị tước đoạt quyền sống, chết một cách tức tửi, đoạn tận cắt ngang kiếp sống. Đấy chính là những khổ đau trầm luân của chúng sanh do sự cộng nghiệp sống, sanh ra cùng thời với những vị vua chúa tham lam, lợi dưỡng, độc quyền độc đoán, có những sai lầm trong suy nghĩ như vậy.

Tiếp nối sự độc đoán dẫn đến những sai lầm trải qua nhiều thời kỳ lịch sử của nhân loại, ngày nay, ở những quốc gia có thể chế độc tài, tầng lớp cai trị tự phân cấp, lạm quyền đặc lợi rất cao so với những tầng lớp chúng sanh, bá tánh khác còn lại trong XH. Chính vì sự độc đoán chuyên quyền nên ngày càng nảy sanh lòng tham sâu nặng. Sự tham lam kéo theo những quyết định si ám, đầy sai lầm nhằm sao cho có lợi cho mình. Ở họ cũng được ví như giai cấp cai trị thời phong kiến vậy. Họ hoang tưởng rằng nhân dân sẽ biết ơn bằng cách tự ý họ ra quyết định cho hậu sự tối ưu tức sau khi chết. Cái đặc quyền sau khi chết ở họ nếu nhìn nhận theo thế gian gọi là cao hơn, sang hơn tầng lớp dân đen khác. Đó là việc lạm dụng tiền thuế nhân dân, tiền mồ hôi nước mắt nhân dân để xây cho mình chỗ an táng đầy quy mô sang trọng tốn kém ko biết bao nhiêu tiền mà xuể. 

Theo giáo lý nhà phật, mỗi chúng sanh đều bình đẳng. Chẳng có chúng sanh nào gọi là cao hơn chúng sanh nào. Xưa kia, phật Gotama đã từng thẳng thừng bác bỏ, đồng thời chỉ rõ sự sai lầm của cái gọi là tầng lớp Bà-la-môn cao hơn chúng sanh khác ở nhiều luận điểm. Chúng sanh đều bình đẳng ở quyền sống, quyền về được hạnh phúc ở thân tâm nên ngay cả quyền lợi và phúc lợi trong XH  đều phải công bằng, bình đẳng. Làm được điều đó cũng là nghĩa cử từ bi, biết bố thí, biết san sẻ lẫn nhau, ai cũng có được phần về mình  đúng theo quy định của pháp luật (chú ý : thế giới hữu vi là tương đối ) và đặc biệt là theo luật nhân quả tương tác ko có gì sai biệt. Chẳng có cái chuyện tự ý lấy tiền của chúng sanh khác, của chung rồi dành phần cho tầng lớp cai trị. Cho rằng, lợi ích của ta, đảng phái của ta có công lao lớn nên phải được hưởng, được quyền này quyền nọ..bla..bla.... tất cả đều là những ngôn từ tỏ ra tánh tham lam, thậm chí xét nặng hơn là những kẻ đi ăn cắp. ăn cướp của XH ko cho tức rơi vào một trong năm giới cấm của nhà phật  mà người Phật tử cần phải gìn giữ nếu xét theo tính chất của sự việc. Ngoài ra, người nhà phật hiểu được cái lẽ phải ko có thân kiến. Tức ko bị vướng kẹt, chấp vào cái thân ngũ uẩn xem nó như trường tồn. Thân này chỉ như là cái quán trọ trong nhân gian. Chúng ta cư trú ở đó, trong kiếp sống này rồi khi chết đi cũng phải luân hồi trôi lăn từ kiếp này sang kiếp khác mà thôi. Nếu ai đó ko chịu khó tìm cách cắt đứt sợi dây luân hồi bằng cách tu tập trải nghiệm thì mãi mãi vẫn luân hồi ko dứt. Thân uẩn có được là do các tổ hợp nhân duyên hội tụ hình thành. Đến khi chúng sanh chết đi, phần sắc thân cũng phải trả về cho đất, cho nước, cho gió, cho lửa (4 yếu tố cơ bản cấu tạo của sắc thân theo lý nhà phật). Cho nên, ai đó luyến tiếc cái thân này rồi đâm ra lo lắng, nghĩ sau khi chết phải ở đâu, chôn chỗ nào, chỗ chôn tốt hay xấu, sang trọng hay ko sang trọng, rộng lớn hay nhỏ hẹp,.... Tất cả đều là những luận điểm khởi lên lòng tham lam, làm cho tâm thức xấu đi, lo lắng, phiền não, khổ đau gia tăng chứ chẳng có lợi ích gì. Vấn đề ở đây, con người phải biết sống thế nào tức giữ cho tâm thiện lành, sáng suốt trong hành động, lời nói ngay trong thời hiện tại để tạo ra những nghiệp quả tốt về sau kể cả sau khi chết sang kiếp sống khác chứ ko phải ham muốn, chấp kiến sai lầm, dựa vào quyền hạn cai trị độc đảng, độc đoán của mình rồi tước đoạt tài sản chung đem cho riêng mình về sau.

Chú ý : search ảnh đính kèm trên để ra nội dung bài báo cần tìm hiểu


Thứ Năm, 18 tháng 1, 2018


Thử tìm hiểu về lịch sử Ấn Độ
 cổ đại một chút xíu và tự đặt câu hỏi vì sao thời kỳ đó đức phật Gotama lại dễ dàng truyền bá chánh pháp? Tại sao Phật có thể tự do "đả phá" các học thuyết được xem là các tà kiến luận của của các trường phái triết học khác thời bấy giờ, đặc biệt là trường phái triết học của Bà la môn giáo ?

Câu trả lời đơn giản đó là,  xã hội Ấn Độ cổ đại đã có sẵn một mầm móng dân chủ, tự do ngôn luận nên đức phật Gotama có thể tự do đi lại truyền bá khắp nơi các quan điểm đối lập như đề cập ở câu hỏi trên. 

Như chúng ta đã biết, tần
g lớp giai cấp Bà La môn giáo là tầng lớp tự tôn lên, cho rằng là tầng lớp thượng đẳng, cao nhất so với các tầng lớp khác còn lại trong XH Ấn thời bấy chừ. Điều này đồng nghĩa với tiếng nói và quyền lực rất cao. Thế nhưng, trong rất nhìu bài kinh nikaya cho thấy, đức Phật vẫn tự do ngôn luận, tự do chỉ ra nhiều luận điểm sai trái của Bà la môn giáo, đồng thời bác bỏ luôn các quan điểm sai lầm, ko đem lại lợi ích cho chúng sanh, nó chỉ đem lại khổ đau cho người khác mà thôi. Nếu tầng lớp Bà La môn trong đó có dòng tộc vua quan tin theo có quan điểm độc tài, độc đoán như các xh độc tài, hạn chế tự do ngôn luận thì có lẽ phật Gotama có hàng trăm cái mạng cũng ko đủ để giới Bà la môn trả thù hoặc cho ở tù mọt gông, trị cái tội "nói xấu" hay làm "phản động" hay là thế lực thù địch rơi vào điều luật hình sự với câu chữ mơ hồ như quốc gia độc tài, độc đảng ai đó đang sống muốn gán ghép. Lúc đó, phật Gotama sẽ ko thể nào truyền bá được chánh pháp lan rộng ra ở nhiều tầng lớp và phạm vi vùng. Phật ko thể nào tự do đi lại, tự do tụ tập hội họp, nhóm đoàn tăng sĩ. Vì nếu muốn nhóm hội sẽ phải đi đăng ký với chính quyền. Nếu được chính quyền cho phép thì họ sẽ cử an ninh tôn giáo chìm tới giả bộ ngồi nghe Phật nói những gì hầu theo dõi ngôn luận. Phật nói kiểu "đả phá" bà la môn giáo, "phản động" thì dùng biện pháp như nói trên. Giáo đoàn của phật Gotama muốn hoạt động thì phải tham gia vào một tổ chức chính trị nếu ko vào sẽ bị an ninh giả dạng côn đồ đến quấy nhiễu. Ví dụ đại khái như phải bắt buộc tham gia vào tổ chức chính trị mặt trận TqVn (tự tìm hiểu chữ viết tắt nhé) chẳng hạn.

Rất may mắn, phật Gotama của chúng ta đã ko sanh ra vào một nước vi phạm nhân quyền, cấm đoán tự do ngôn luận mà tái thế vào một nước Ấn độ cổ đại có sự tự do ngôn luận ở mức nguyên thủy sơ khai. Cho nên, phật giáo được tự do lan truyền khắp các vùng Ấn Độ kể cả các quốc gia lân cận sau này.

Ghi chú : Ở giai đoạn khoảng năm 600 TCN tức cùng thời đức Phật sống, Vùng Ấn độ đã có mô hình nhà nước cộng hòa do dân bầu lãnh đạo nằm rải rác khắp nơi vùng đồng bằng Ấn Hằng. Đây là mô hình nhà nước dân chủ sơ khai.

Thứ Ba, 16 tháng 1, 2018


Trả lời : 
Lâu nay, người học phật, tu phật thường nghe nhắc đến nhiều lần hai từ Sa bà nhưng không rõ nghĩa nhiều về nó. Chúng ta chỉ hiểu về nghĩa tương đối là cõi con người sinh sống mà thôi.

Sa bà hay gọi cách khác là ta bà nghĩa là nhẫn độ, kham nhẫn.

Vì sao gọi cõi này là kham nhẫn ? sở dĩ gọi vậy là do cõi này có con người sinh sống. Cụ thể là con người chúng ta sinh sống trên phạm vi trái đất phải chịu nhiều điều khổ đau, phiền não. Từ khi con người mới sanh ra đến khi già chết đã phải chịu phiền não, khổ đau rồi. Chính điều này đòi hỏi con người phải có sự nhẫn lớn để tồn tại, cho nên gọi cõi này là cõi sa bà hay ta bà.

Phạm vi địa lý của ta bà thế giới : nhiều ngừi thường nghĩ tưởng ta bà thế giới này chỉ dừng lại ở vị trí địa lý trên trái đất có con ngừi, nhưng trên thực tế theo vũ trụ quan phật giáo thì ta bà thế giới thật sự rất rất rộng lớn vượt ra khỏi địa lý con người sinh mà với trình độ khoa học hiện nay khó có thể biết rõ chi tiết như thế nào được. Ta bà thế giới được phật Gotama giáo hoá. Vì vậy, Ngài được gọi là vị thầy của trời và người. Như vậy, ta bà thế giới nó bao gồm luôn cả cõi trời  nữa chứ không dừng lại ở phạm vi trái đất nhỏ bé. Trong đạo phật có khái niệm TAM THIÊN ĐẠI THẾ GIỚI chính là thế giới ta bà. Trái đất của chúng ta nằm trong thái dương hệ. Và thái dương hệ được gọi là một tiểu thế giới. Tam thiên đại thế giới bao gồm 1 tỷ tiểu thế giới kiểu như vậy. Trong đó: một nghìn tiểu thế giới tạo thành một tiểu thiên thế giới; một nghìn tiểu thiên thế giới tạo thành một trung thiên thế giới; một nghìn trung thiên thế giới tạo thành một đại thiên thế giới. Gấp 3 lần một nghìn bởi 3 khái niệm trên gọi đầy đủ là tam thiên đại thế giới.

Như vậy, ta bà thế giới thật sự rộng lớn tưởng chừng như không tưởng, ko thể nghĩ bàn được.

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

(Người dịch: Lại Như Bằng)

Bài thuyết trình của G.S. André Bareau (Giáo sư Collège de France) tại Trung Tâm Văn Hóa Tin Lành dòng Luther, Paris, ngày 11 Tháng 12 năm 1984.
 -oOo-


 "Giê-su qua cái nhìn của người Phật tử": đây là một đề tài lý thú, nhưng quả thực là khó. Trước hết, trong tất cả những đạo lớn của thế giới, có lẽ đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất trên những giáo lý cơ bản và trên nhiều điểm quan trọng, mặc dù vẫn gần gũi, hay có vẻ gần gũi, trên nhiều điểm khác. Thứ đến, vì hình thức hành đạo rất đa dạng của đạo Phật qua thời gian và không gian, vì sự hội nhập của đạo Phật vào nhiều nền văn minh khác nhau, vào nhiều dân tộc khác nhau, mà có thể có những "cái nhìn về Giê-su" rất khác nhau giữa những người Phật tử. Sau hết, nếu chúng ta biết khá rõ về cái nhìn của người Phật tử, nhất là Phật tử thời nay, về đạo Ki-tô, chúng ta rất ít khi được nghe họ nói quan niệm của họ về cá nhân Giê-su.

Trước khi tìm hiểu người Phật tử thực sự nghĩ sao, tôi thiết nghĩ cần phải xét xem, căn cứ theo giáo lý cơ bản của kinh điển nguyên thủy, đã được ghi chép lại từ hơn 20 thế kỷ nay, người Phật tử sẽ phải nghĩ thế nào về người sáng lập đạo Ki-tô.

Như quý vị đã rõ, đạo Phật là một đạo có đặc điểm, rất khó hiểu cho người phương tây chúng ta, là không những từ chối không chấp nhận một Thượng Đế độc nhất, thường hằng, quyền phép vô biên, tạo hóa mọi sự vật, chủ tể mọi loài trong vũ trụ, mà còn không chấp nhận một cá thể thường hằng tương đương với cái mà chúng ta gọi là linh hồn. Chính vì phủ nhận nguyên tắc một cá thể thường hằng mà người Phật tử không thể chấp nhận một Đấng Tạo Hóa như người phương tây chúng ta vẫn quan niệm.

Cần nói cho rõ: Đạo Phật chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu của các thần linh, trái lại nữa là khác, theo đạo Phật có hằng hà sa số các vị trời, hàng triệu thần tiên đủ loại, lớn nhỏ, thiên thần cũng như địa thần; có những vị thù thắng vi diệu, thân toàn ánh sáng sống bằng lạc thọ, có những vị thân thể thô thiển hơn nhưng người trần không thấy nổi, tất cả đều quyền phép oai vũ hơn người trần rất nhiều. Các vị trời và thần này, dù oai linh quyền phép đến đâu đi nữa cũng vẫn bị hạn chế trong thời gian sống và trong quyền phép của mình. Mỗi vị sinh ra bằng hóa hiện ra giữa các vị trời, sống rất lâu, hàng tỷ năm (người Ấn Độ thường vẫn hay phóng đại khi phải vận dụng trí tưởng tượng vốn rất phong phú), sống sung sướng an lành, không đau đớn, không phiền não lo âu, không bịnh tật, không chết chóc như các loài hữu tình khác, là loài người hay không phải là loài người. Nhưng đời sống này dĩ nhiên sẽ phải có kết thúc, cũng như mọi sự mọi vật đã có bắt đầu, đã được sanh ra. Một ngày kia, vị trời này sẽ mất đi, bỗng nhiên biến đi, không đau đớn lo âu, và sẽ tái sinh như bất cứ một hữu tình nào khác, vào cõi trời, hoặc cõi người, hoặc cõi súc sinh, hoặc cõi ngạ quỷ, tùy theo nghiệp quá khứ của vị đó. Vốn không thường hằng, vốn được sinh ra và mất đi như các hữu tình khác, dĩ nhiên vị trời này không thể là đấng tạo ra vũ trụ và những loài sinh sống trong đó. Quyền phép dù rộng lớn đến đâu đi nữa nhưng vẫn có giới hạn, vị trời này không thể là chủ tể mọi loài, mọi sự, mọi vật.

Không chấp nhận một Đấng Tạo Hóa, theo quan niệm chúng ta thường có bên phương tây Ki-tô giáo, người Phật tử dĩ nhiên không thể chấp nhận tính thiên khải của Giê-su. Đối với họ, dựa theo lịch sử, Giê-su chỉ là một con người. Tuy nhiên, với tất cả những đức tính hiển nhiên của ngài, chắc chắn sau đó ngài đã sinh vào cõi trời dựa theo luật nhân quả, do sự "chín mùi" của các thiện nghiệp của ngài. Tóm lại, dưới con mắt của đạo Phật, con người Giê-su, sau khi chết, chắc đã trở thành một vị trời, nghĩa là một loại siêu nhân của một đẳng cấp nào đó, biểu hiện bởi những tính chất, những quyền phép, với đời sống lâu dài, với sinh hoạt đặc biệt; sinh hoạt này có thể là sự quán chiếu chân lý (contemplation de la vérité) hay chỉ là quán trí tiếp cận chân lý (méditation d'approche), hay chỉ là hưởng thụ lạc thú của thiên giới dưới mọi hình thức khác nhau, có dục tính hay không dục tính, hoặc kiểm xét sinh hoạt của loài người. Khi vị Giê-su trở thành trời chết đi thì, trong một tương lai xa hay gần, tùy theo địa vị hiện tại của ngài trên cõi trời, ngài sẽ tái sinh lại, cũng như vô số lần khác trong quá khứ. Chắc ngài sẽ sanh lại cõi trời hay cõi người tùy theo các đức tính và các thiện nghiệp của ngài, ngài sẽ không bị thu hút vào những cõi xấu xa như những kẻ tham ác, những loài súc sinh, ngạ quỷ. Nói cách khác, trong đời sống tương lai, Giê-su có thể còn giữ được tính trời của mình, theo ý nghĩa của đạo Phật, hay sinh vào cõi người , và trong trường hợp này sẽ hành động như một vị Cứu tinh (Messie), trong giới hạn mà đạo Phật đã định cho vai trò này. Như vậy, đạo Phật không phủ nhận tính trời của Giê-su, tính trời được hiểu theo một ý nghĩa nào đó, cũng như không phủ nhận tính người của ngài; tuy nhiên hai tính này không thể tồn tại cùng một lúc mà phải kế tiếp nhau.

Nếu con người Giê-su sanh ra cách đây ngót hai mươi thế kỷ đã trở thành một vị trời, người Phật tử có thể dễ dàng chấp nhận chuyện này, thì, cũng như mọi vị trời khác, ngài rất đáng được kính trọng, đáng được tôn sùng, vì vô số thiện nghiệp của ngài trong các đời sống trước; tính trời của các vị chứng minh cho những thiện nghiệp của các vị trong các kiếp trước. Hơn nữa, nghi lễ của đạo Ki-tô không đòi hỏi sát sanh, cũng giống như nghi lễ đạo Phật, vì sát sanh để cúng tế là phạm vào một trong những giới cấm cơ bản chung cho cả hai đạo, người Phật tử không thể chê trách gì tín đồ Ki-tô khi những người này tôn thờ Thầy của họ, Chúa của họ. Còn hơn thế nữa, không gì ngăn cản người Phật tử tôn sùng Giê-su cũng như tôn sùng các vị thần linh khác xuất xứ từ Ấn Độ Giáo; trong nhiều chùa ta thường gặp đền thờ các vị thần này.

Thật vậy, ngược với đạo Ki-tô, sinh ra trong những điều kiện hoàn toàn khác, đạo Phật không những chưa bao giờ phủ nhận sự hiện hữu hoặc phủ nhận tính trời của vô số vị trời của Ấn Độ cổ xưa, hay của các xứ mà đạo Phật truyền tới, mà đạo Phật cũng không hạ thấp các vị trời đó xuống hàng những loài quỷ, xấu xa và tàn bạo, hiện thân của mọi điều xấu. Ngược lại, đạo Phật đã thu nhập tất cả những vị này, kể cả những vị vốn rất hung dữ cũng được mau chóng chuyển hóa. Còn hơn thế nữa, đạo Phật đã nâng các vị thần này lên hàng mẫu mực cho Phật tử cư sĩ, nhưng không thể là mẫu cho hàng tăng sĩ vì đời sống quá sung sướng của cõi trời khiến các vị trời không thể thành tu sĩ khổ hạnh, không thể trì hành các giới luật nghiêm túc và khắc khổ, con đường duy nhất đưa đến giải thoát, Niết-bàn.

Trong thiên giới phong phú và phức tạp được đạo Phật công nhận, rất hiếm có những vị trời còn giữ tính dữ dằn hoặc là căm thù đối với loài người. Nếu có, thường chỉ là những vị địa tiên thuộc những tầng thấp nhất, những vị tiểu thần của một thôn xóm nào đó, hay là Mâra, thần chết, đối thủ chính và dai dẳng của đức Phật, vì ngài dạy cho muôn loài phương pháp để thoát khỏi sự chết, hay đúng hơn những sự chết kế tiếp nhau, hệ quả của những sự tái sinh. Thật ra, Mâra là một hình ảnh có tính biểu tượng, chỉ được dùng trong đạo Phật, và theo truyền thuyết thì thường thường lố bịch hơn là ghê gớm, ngay cả lúc vị thần này xua đoàn quân quỷ do nó sanh ra để tấn công đức Phật và đức Phật đã xua tan chúng chỉ bằng một ý niệm của ngài.

Những vị trời, ngoại trừ một vài vị rất hiếm, đều là những hữu thể hiền hoà xứng đáng được tôn kính; theo giáo lý nhà Phật thì đây là một chuyện rất dễ hiểu, vì nếu các ngài hưởng được hạnh phúc của cõi trời là vì các ngài thừa hưởng quả báo của vô số thiện nghiệp trong những đời trước. Trở lại đề tài của chúng ta, nếu con người Giê-su đã trở thành một vị trời, và đứng trên quan niệm Phật giáo thì chuyện này rất đáng tin, ngài xứng đáng được mọi người tôn kính, không những chỉ tín đồ đạo Ki-tô, mà cả những người Phật tử và những người theo đạo khác cũng vậy.

Con người Giê-su trở thành một vị trời do đó được kính trọng, phải chăng điều này có nghĩa là giáo lý của ngài dạy cách đây hai ngàn năm cũng phải được trọng vọng như vậy? Nói cách khác, với người Phật tử, giáo lý của Giê-su, đạo Ki-tô, có đáng được trọng vọng bằng những thiện nghiệp của ngài không? Chắc chắn là đáng trong chừng mực mà giáo lý của ngài phù hợp với lời dạy của Đấng Thế Tôn, nghĩa là có ích lợi cho con người, giúp con người tiến bộ trên con đường giải thoát hay ít ra giúp tái sinh trong cõi trời hay cõi người chứ không bị rơi vào những cõi xấu xa khác. Trái lại, cũng không đáng, vì giáo lý của Giê-su không dẫn con người tới Niết-bàn, hay đúng hơn khiến con người ngừng lại dọc đường, chỉ dẫn đến tái sinh nơi thiên đàng của một vị trời trong một thời gian có giới hạn, dù giới hạn này có dài lâu đến đâu đi nữa, và làm cho con người lầm tưởng rằng sẽ được ở đó vĩnh viễn. Tóm lại, giáo lý của Giê-su chỉ dành cho cư sĩ, những người muốn có một đời sống tương lai càng sung sướng, càng lâu dài càng tốt, trong khi giáo lý của đức Phật nhắm những tu sĩ, những người, sau khi thấu rõ tính chất vô thường, sự giới hạn trong không gian và thời gian, của vạn vật, kể cả hạnh phúc trong cõi trời, không vừa lòng với hạnh phúc đó, quyết định đạt đến Niết-bàn, chấm dứt mọi tái sinh, dù trong cõi nào đi nữa.

Hệ luân lý Giê-su truyền dạy cho tín đồ ngài hầu như in hệt hệ luân lý đức Phật dạy cho Phật tử. Không những cả đôi bên đều ngăn cấm làm điều ác, lớn hay nhỏ, như giết người, trộm cắp, tà hạnh, hưởng thụ, dối trá, phóng dật, v.v..., mà cả đôi bên cũng đều luôn luôn khuyên bảo tín đồ mình nuôi dưỡng và thể hiện những đức tính như lòng nhân ái, lòng từ bi, tính kiên trì, lòng từ thiện, lòng khoan dung mỗi khi bị xúc phạm, ... Cả hai đều thấy rõ là sự thể hiện hệ luân lý chung này chỉ là bước đầu, rất cần thiết nhưng không đầy đủ, trên con đường dài đưa đến mục tiêu tối hậu do các vị sáng lập đạo giáo vạch ra cho tín đồ của mình, thiên đàng cho người theo đạo Ki-tô, Niết-bàn cho Phật tử. Tóm lại, cùng truyền dạy một hệ luân lý chung như là bước đầu cơ bản, Giê-su và đức Phật lúc đầu dẫn đắt tín đồ của mình trên cùng một con đường, một con đường dài và khó khăn cho nhiều người nhưng không thể tránh khỏi để chuẩn bị cho chặng đường sau, cho một đời sống đạo hạnh, tu luyện tâm linh để đạt đến một quả vị nào đó.

Ngoài những điểm tương đồng kể trên, giáo lý của Giê-su và giáo lý của đức Phật khác biệt nhau rất xa. Với đức Phật, giáo lý của Giê-su sai lạc, không đúng với sự thật, không đúng với những Thánh đế mà tu sĩ Gotama đã "giác ngộ." Như vậy, giáo lý đạo Ki-tô, dù với hệ luân lý cao đẹp, là dẫn dắt tín đồ mình sanh vào một cõi trời, nhưng lại ngăn chận không cho tiến xa hơn, tới sự giải thoát khỏi vòng luân hồi, đạt đến Niết-bàn, vì làm cho tín đồ mình hiểu sai lầm rằng hạnh phúc trên cõi trời là mục đích cao cả nhất. Đối với người Phật tử, Giê-su đáng tôn kính vì đã dẫn dắt, bằng hệ luân lý của ngài, con người đến cõi sung sướng, nhưng ngài cũng không hoàn hảo vì đã truyền cho tín đồ một đạo lý sai lạc. Giáo lý này sai lạc vì nó dựa lên lòng tin nơi một vị trời độc nhất, thường hằng và tạo hóa mọi vật, tin vào một linh hồn vĩnh cửu, ẩn trong mỗi con người. Nó sai lạc vì nó không chấp nhận lẽ vô thường, lẽ vô ngã, do đó đưa đến phiền não khổ đau, của mỗi hữu tình. Nó còn sai lạc vì nó khuyên dạy tín đồ phát triển lòng sùng bái vị trời của họ và lòng thương yêu những con người khác, cả hai tính này đều có cơ sở là tham ái, trong khi đức Phật khuyên dạy phải xa lìa tham ái dưới mọi hình thức vì nó là một chướng ngại quan trọng trên con đường giải thoát, ngài khuyên dạy phải phá chấp một cách triệt để, và trong tuyệt đối, không chấp chước cả đến những đức tính cao cả nhất, như lòng nhân ái, lòng từ bi, lòng từ thiện, lòng khoan dung.

Như vậy, đối với Phật tử, Giê-su là một con người đáng kính trọng, tôn sùng, là một vị thánh nhân và chắc đã trở thành trời sau khi là một con người, cách đây ngót hai mươi thế kỷ. Tuy vậy ngài vẫn thua kém đức Phật, dù đức Phật vẫn còn là người trong kiếp sống cuối cùng, trong khi Giê-su có lẽ đã thành trời trong đời sống đó. Thật ra, dưới con mắt những người Phật tử, tôn sư của họ, dù vẫn còn sống trong cõi người, đã tự nâng mình lên cao hơn mọi vị trời, đã "giác ngộ" Chân như, tìm ra con đường đưa đến Niết-bàn, điều mà không một vị trời nào có thể làm nổi chính vì tính trời của họ. Thật vậy, hạnh phúc vô hạn của các vị trời khiến các ngài không thấu rõ được phiền não khổ đau tiềm ẩn trong mỗi hữu tình, dù có mang hình thái nào đi nữa. Chính sự chứng ngộ khổ đau này, đối với người Phật tử, là bước đầu trên con đường rất dài và rất khó khăn đưa đến sự giải thoái khỏi vòng luân hồi.

Sau khi đã tìm hiểu cái nhìn mà người Phật tử lẽ ra phải có về Giê-su, dựa trên giáo lý cơ bản mà người Phật tử đã học hỏi và tin theo, chúng ta xét trong tựhc tế họ nghĩ sao về Giê-su, lần này ta dựa trên những lời nói của chính họ.

Muốn như vậy, tôi dã dựa vào bốn trong những người cộng tác xuất sắc nhất của tôi, mỗi vị có một sự hiểu biết thấu đáo về quan niệm của những người Phật tử, trên mỗi khía cạnh khác nhau. Thượng tọa Thích Thiện Châu, Tiến sĩ Văn chương, vốn là một vị tôn đức của Phật giáo Việt nam. Ông Mohan Wijayaratna, sinh ra trong một gia đình song giáo, Ki-tô và Phật, sắp trình luận án Tiến sĩ về một số khía cạnh của Phật giáo Tích lan và cũng đã từng viết nhiều bài báo rất đáng chú ý, một trong những bài này nói về đề tài chúng ta bàn đến hôm nay, dưới con mắt người Tích lan. Đức Cha Eugène Denis, Tiến sĩ Văn chương và nghiên cứu viên tại Viện Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia (CNRS), sống tại Thái Lan từ hơn ba mươi năm nay và đang nghiên cứu đạo Phật xứ này. Ông Paul Magnin, nghiên cứu viên tại Viện Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia (CNRS), đã từng sống lâu năm tại các xứ Viễn đông, nhất là tại Đài Loan, chuyên nghiên cứu về đạo Phật Trung quốc. Tôi cũng phải nói đến quyển sách quý báu do đồng nghiệp và cũng là bạn thân của tôi, Giáo sư Jacques Gernet, xuất bản cách đây hai năm tại nhà xuất bản Gallimard dưới tựa đề "Trung quốc và đạo Ki-tô, tác động và phản ứng" (Chine et christianisme, ation et réaction); tác phẩm này cho ta biết và hiểu quan niệm của người Trung quốc, người Phật tử hay người theo đạo khác, về đạo Ki-tô và về Giê-su trong những thế kỷ XVII và XVIII.

Lẽ ra, trong chừng mực nào đó, ta phải gắn bó sự tìm hiểu cái nhìn của người Phật tử về Giê-su với cái nhìn của họ về đạo Ki-tô. Nhưng vấn đề này tự nó cũng rất phức tạp khiến ta không có thì giờ bàn tới bữa nay.

Cái nhìn của Phật tử về Giê-su thay đổi tùy thời điểm lịch sử, tùy xứ, tùy tông phái. Nhưng ngày nay nó có xu hướng trở nên đồng nhất.

Người Trung quốc vào thế kỷ XVII và XVIII có một cái nhìn nghiêm khắc nhất, tuy nhiên rất khó mà phân định đâu là phần của đạo Phật, đâu là phần của đạo Khổng hay đạo Lão. Với người trung Quốc, Giê-su chỉ là một người, bị kết án tử hình vì làm loạn, làm xáo trộn trật tự xã hội, điều tối kỵ đối với truyền thống Á đông. Cái chết khổ nhục của Giê-su, bị hành hình trên cây Thập ác như một tên tội phạm, sự đau đớn phải trải qua, theo người Phật tử, chỉ là kết quả của ác nghiệp trong quá khứ, nghiệp càng ác, quả báo càng nặng. Thuyết nghiệp báo khiến một số Phật tử nghĩ rằng đời trước Giê-su đã giết người. Hơn nữa, không dủ sức thoát khỏi cực hình, tự cứu thoát bằng phép tắc nhiệm mầu thì làm sao Giê-su có thể cứu người khác? Nếu Giê-su là Thượng đế tối cao, khi ngài đầu thai làm người, đất trời không ai cai quản, kết quả sẽ khủng khiếp vô cùng. Còn nếu ngài giáng sinh từ Thượng đế thì ngài thua đức Phật xa, vì chẳng cần ai giúp sức, dù là thần thánh hay gì gì đi nữa, đức Phật tự mình đã tìm ra giáo lý giải thoát và tự lấy quyết định truyền bá giáo lý này. Dù sao đi nữa, nếu Giê-su là một vị trời, ngài chỉ có thể là một vị trời như muôn ngàn vị khác, chịu theo quy luật nghiêm khắc của quả báo tái sinh, và do đó thấp hơn đức Phật, người đã ra ngoài vòng sanh tử luân hồi. Sự kiện Giê-su giáng sinh chẳng có gì đáng chú tâm, vì thực ra, nó chỉ là một hiện tượng mà người Phật tử coi là tương đối và tùy theo điều kiện mà sanh ra, trong dòng sanh tử luân hồi vô thường của thế giới. Hơn nữa, sự giáng sinh này mâu thuẫn với tính chúa-ba-ngôi mà giáo lý Ki-tô gán cho ngài. Còn các phép lạ của Giê-su chẳng thấm vào đâu so với các oai phép Phật đã tung ra, bao trùm cả vũ trụ vô thủy vô chung, bao gồm hằng hà sa số thế giới.

Thời nay, những mâu thuẫn cũ giữa hai đạo đã giảm bớt, cái nhìn của Phật tử về Giê-su cũng nhẹ nhàng hơn. Dĩ nhiên, người Phật tử không nhìn nhận, không thể nhìn nhận Giê-su là vị Cứu thế, hay là Đấng Tạo Hóa, thường hằng và tối thắng, vì những danh hiệu này đối với Phật tử hoàn toàn vô nghĩa, hay chỉ định những ảo vọng do vô minh tạo ra. Dĩ nhiên, người Phật tử cũng không thể đặt Giê-su cao hơn đức Phật, như một nhà truyền giáo nọ đã vụng về cố gắng chứng minh rằng đức Phật là kẻ đi trước chuẩn bị cho Giê-su xuất hiện. Và dĩ nhiên, người Phật tử không chấp nhận có sự phục sinh của Giê-su, vì khái niệm phục sinh không có trong giáo lý đạo Phật, cũng như không có trong giáo lý Ấn độ hay đạo Jaĩna. Sự tái sinh sau khi chết hoàn toàn khác với sự phục sinh của đạo Ki-tô.

Ngoài những giới hạn kể trên, giới hạn suy ra dựa vào lời dạy của đức Phật, hầu như mọi người Phật tử thời nay đều có thiện cảm với Giê-su. Họ cảm mến ngài, kính phục nữa, nhưng không phải vì vậy mà họ mảy may có ý cải đạo theo đạo Ki-tô. Họ sẵn sàng nêu lên những điểm tương đồng giữa Giê-su và đức Phật: Một đời sống trong sạch, được hướng dẫn bởi một hệ luân lý cao cả, vô vị lợi, thấm nhuần bởi lòng nhân ái, lòng từ bi, lòng từ thiện, lòng khoan dung, cho đến hy sinh cả tính mạng của chính mình. Theo họ, cả Giê-su lẫn đức Phật đều đáng kính, cả hai đều là những vị thánh nhân hiền đức như nhau.

Thượng tọa Thích Thiện Châu có đưa thêm vài ý khá lý thú, dựa trên giáo lý Đạo Phật Phát Triển (Mahayana), một phong trào canh tân trong đạo Phật cách đây hai mươi thế kỷ; đạo Phật Việt Nam bắt nguồn từ đó, cũng như rất nhiều hình thái khác của đạo Phật tại Viễn đông và Trung đông. Giáo lý Ba Thân Phật cho phép ta hiểu tính chất của Giê-su rõ hơn là giáo lý nguyên thủy, hiện còn thịnh hành tại Tích Lan và Đông Nam Á. Giáo lý Phát Triển quan niệm là đức Thế tôn có ba thân: Hóa thân hay ứng thân, người thường thấy được, với thân này Phật đã sanh ra, sống một đời sống bình thường của mọi người rồi chết đi; Báo thân, ngài dùng thân này để hiện ra giữa các vị Bồ-tát, tức là những vị xả thân cứu đời để thành Phật trong một thời gian rất xa nữa; và Pháp thân, là thật thể của các pháp trong vũ trụ, thân như thật và vĩnh cửu, các hữu tình đều có thân này, nhờ thế mà trong tương lai, có thể rất xa, tất cả đều có thể thành Phật. Ta có thể áp dụng Lý Ba Thân này vào trường hợp Giê-su để giải thích tính chất vừa trời vừa người của ngài, giải thích cách nào ngài vừa ở đời cứu nhân độ thế, vừa ngự trị trên ngôi tối thượng tuyệt đối. Thân thứ nhất có thể coi là thân mà mọi người bình thường trông thấy, là thân của Giê-su lịch sử, đã sanh ra, truyền đạo, đau khổ và chết đi trên cây Thập ác. Thân thứ hai là báo thân huyền diệu mà ba đệ tử Pierre, Jean và Jacques đã chiêm ngưỡng trên núi. Thân thứ ba là thân trời, người thường không thể nghĩ bàn, thân Cha trong quan niệm Ba Ngôi của đạo Ki-tô. Cách so sánh này, giữa hai giáo chủ, giúp cho người Phật tử hiểu biết dễ dàng hơn về Chúa cứu thế và Kinh thánh, và kính trọng ngài hơn. Thượng tọa Thích Thiện Châu đưa ra một hình ảnh tuyệt đẹp: "Ta có thể yêu mến sự tinh khiết của hoa sen, và cùng lúc thưởng thức cái đẹp của hoa huệ và hoa hồng."(*)

Vị tăng sĩ Việt Nam nêu ra một điểm gần gũi nữa, giữa đạo Ki-tô và tông Tịnh độ, một tông phái ở Viễn đông khá quan trọng chỉ tôn thờ Phật A Di Đà, hay "Vô lượng quang Phật", một vị Phật trước đây đã nguyện đón về đất "Tịnh Độ" tất cả hữu tình niệm danh hiệu ngài. Phật A Di Đà có một vị cộng tác nổi tiếng nhất trong các hàng Bồ tát, đó là Bồ tát Quan Thế Âm, đại từ đại bi, luôn luôn sẵn sàng hiện ra cứu giúp những kẻ hoạn nạn và đã từ chối không thành Phật chừng nào tất cả hữu tình chưa đạt Niết bàn. Hình ảnh Quan Thế Âm rất gần với hình ảnh Giê-su, do đó những người tu theo Đạo Phật Phát Triển, nhất là tông Tịnh độ, có thể tôn kính Giê-su như một vị Bồ tát. Đạo Phật Phát Triển cho rằng các vị Phật tương lai này, ngoài những đức tính như lòng từ bi, trí tuệ, lòng nhân ái, lòng nhẫn nại, v.v... còn "giỏi về phương tiện" để cứu vớt hữu tình, làm những phép lạ, do đó Phật tử các tông phái Phát Triển chấp nhận dễ dàng là Giê-su thực sự có phép lạ.

Tuy nhiên, Thượng tọa Thích Thiện Châu nói thêm, Phật tử thuộc các tông phái Phát Triển [với quan niệm tôn kính về Giê-su như đã nói ở trên] không tránh khỏi ngỡ ngàng trước những lời cuối cùng có lẽ Giê-su đã thốt ra trên cây Thập ác: "Chúa ơi, Chúa ơi, sao lại bỏ rơi con?."

Như vậy, trong các tôn giáo lớn, đạo Phật là đạo xa cách đạo Ki-tô nhất, về mặt giáo lý cũng như phương cách hành đạo, nhưng, ngược lại, cũng là đạo biết đánh giá cao nhất giá trị tâm linh của đạo Ki-tô. Điều đó càng đúng vào thời đại này, khi mà đạo Ki-tô đã từ bỏ thái độ thù địch cố hữu của mình với mọi tín ngưỡng khác để chấp nhận rằng các đạo giáo đó không phải là âm mưu của quỷ dữ, mà là những cố gắng nhiều khi rất đáng quý nhằm xoa dịu phiền não khổ đau của con người bằng cách hiến dâng họ những hy vọng vào một ngày mai xán lạn hơn. Những quan hệ thường thường rất nồng hậu giữa Phật tử và tín đồ Ki-tô, và nhất là giữa những người đại diện của các cộng đồng đôi bên tại trung Á và đông Á, là những khích lệ lớn và có nhiều ý nghĩa. Trong các kết quả đáng chú ý nhất, phải kể cái nhìn kính trọng và có thiện cảm của đa số người Phật tử thời nay với con người Giê-su, dù là Phật tử xứ nào đi nữa, hay thuộc tông phái nào đi nữa.

RẤT HÂN HẠNH ĐƯỢC CÁC BẠN GHÉ THĂM